HAI SẮC HOA TIGON
Lời nhạc: Trần Thiện Thanh
Lời cổ: Viễn Châu
Tân Nhạc:
Nam:
Một mùa Thu trước khi nắng chiều nhuộm vàng tóc mai ?
Khi hoàng hôn tới đôi người chung lối lúc hoa nở trên bước đi .
Vuốt tóc người yêu anh nhìn đường xa hoang vắng
Nhặt cánh ti - gôn anh bảo rằng như tim vỡ.
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi !
Để người em gái xanh tuổi đời một lần vấn vương !
Đâu ngờ giông tố phai màu hương phấn héo xuân thì khi trót thương .
Có biết gì đâu khi còn đường trăng chung bóng
Và sắc Ti - gôn em ngỡ màu yêu trong trắng
Muôn đời vạn kiếp không biến suy !
VỌNG CỔ:
Câu 1:
Nữ: Nhưng lá úa vườn Thanh đã phơi bày rơi rụng….
Mà kẻ cô đơn vẫn tưởng mơ hoài vọng cánh chim…trời !
Hoa thắm ngày xưa đã héo rụng lâu rồi.
Cứ mỗi độ thu vườn Thanh phai sắc lá
Thì lệ ngập ngừng lại nhỏ xuống tim côi !
Tôi bâng khuâng nhặt cánh hoa Ti – Gôn
ép vào tim để tưởng nhớ một người !
Cứ mỗi lần trông thấy cánh hoa rơi
Người sợ tình duyên cũng bẽ bàng tan vỡ
Câu 2:
Thu đến …Thu đi cho lòng thêm giá lạnh....
Nhớ người xưa tôi nhặt cánh hoa tàn .
Trong một ngày vui với xác pháo nhuộm đường .
Tôi đã hẹn những gì buổi trước .
Rồi bây giờ lại cất bước sang ngang .
Chẳng biết người có hờn giận tôi không ?
Khi nhớ đến một loài hoa vỡ…?
Có ai biết một người con gái giữa loan phòng
Suối lệ nhỏ thành thơ ?.
TÂN NHẠC:
Nam: Rồi một người ra đi bến cát lạ trách trăng sầu .
Và một người cô đơn ôm mối lẻ khóc duyên đầu .
Rồi thu qua, và thu qua,
Thu nào mình hẹn hò thu nào xa ?
Và một mùa Thu sau, con đò tách bến sang ngang
Mà đường dài miên mang Thu còn dấu bước anh sang .
Vườn Thanh ơi ! Người xưa ơi !
Thôi đành vĩnh biệt nhau .... từ đây …!
VỌNG CỔ:
Nữ:
Câu 5:
Vườn Thanh ơi từ nay xin giã biệt...
Dù lòng tôi vẫn luôn luôn tha thiết…mong…chờ !
Tôi sợ những chiều đông nắng nhạt sương mờ .
Khi người ấy chán chê đời phiêu lãng.
Đã âm thầm trở lại vườn xưa .
Nhưng tôi đi rồi để hoa lá xơ rơ .
Anh còn trở về đây làm chi nữa ?
Trên bến lạnh xạt xào cây trút lá
Anh đứng ven sông để ngóng đợi con đò .
TÂN NHẠC:
Nam:
Rồi từng Thu chết, Thu chán chường tìm lại xứ Thanh .
Khi tình câm nín cho buồn lên tiếng ...
Những đêm trường ngỡ bước anh .
Nhớ lúc hẹn xưa anh nhìn đường xa hoang vắng .
Nhặt cánh Ti - gôn, anh bảo rằng như tim vỡ .
Khi hiểu ... Tình xưa còn thấy đâu ?
Vọng Cổ:
Câu 6:
Nữ: Người có buồn không khi biết người năm cũ …
từ giã vườn Thanh để cất bước theo chồng .
Cho tôi ép nốt dòng dư lệ .
Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên …
Hoa tim sắc thắm phai hồng .
Gượng sống bên chồng cho trọn một đời em ./.
Ông tên thật là Huỳnh Trí Bá, sinh ngày 21 tháng 10 năm 1924 tại xã Đôn Châu, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh. Xuất thân trong gia đình vọng tộc, thân phụ là Hương cả[1], là con thứ sáu trong gia đình, ông còn có tên là Bảy Bá theo thông lệ người miền Nam.
Ông được mệnh danh là vua của các vị vua cải lương, "là người tạo danh cho các nghệ sĩ", bởi qua nhiều sáng tác của ông, nhiều nghệ sĩ khi thể hiện đã được cái ưa thích để đông đảo người xem chú ý hơn, ví dụ như: Mỹ Châu với bài "Hòn vọng phu", Út Trà Ôn với "Tình anh bán chiếu",... Bên cạnh đó, ông cũng sáng tác ra nhiều bài vọng cổ hài hước mà sau này được nhiều gương mặt nổi danh như nghệ sĩ Văn Hường, Hề Sa,...
Ông được Nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú năm 1988 và Nghệ sĩ Nhân dân năm 2012 để tôn vinh những đóng góp và thành tựu nghệ thuật của ông.
Hơn 50 năm sáng tác, ông đã để lại một kho tàng tác phẩm đồ sộ. Trên 50 vở cải lương đã được trình diễn trên các sân khấu đại ban và trên 2000 bản vọng cổ đã được các hãng đĩa, băng thu thanh và phát hành. Toàn bộ tác phẩm đều đã được đăng ký bản quyền[11]. Dưới đây chỉ là một số tác phẩm tiêu biểu: