HẠNG VÕ BIỆT NGU CƠ
Soạn giả: Viễn Châu
Ly Hận (nhạc Hồ quảng)
Chiều tàn, xa xa trống chiêng rền vang
Rừng sâu, đèo cao khói sương trập trùng
Lửa binh ngập trời, nhìn về quê xưa
Thành đô tan nát, rừng hoang vắng sương chiều mịt mù,
Nương vó câu lên đường ngậm ngùi cho ai ta bỗng dưng lệ trào.
Vọng cổ
Câu 1: Trời ơi! Tiếng sáo thê lương như mỉa mai người tuyệt vọng đang đứng bơ vơ trong tiếng trống kinh... hoàng. Cát bụi mờ bay che phủ ánh trăng tàn. Bên tai ta còn nghe văng vẳng, giọng u hoài của tiếng sáo Trương Lương. Ta có ngờ đâu một đời vẫy vùng ngang dọc của Hạng Võ Sở Bá Vương hôm nay lại gặp bước đường cùng. Ba ngàn tử đệ vong thân, cung điện huy hoàng cũng chìm trong khói lửa.
Câu 2: Giữa lúc sa cơ Ô chùy như nản bước, nên vó câu đã mỏi mệt ê chề. Hết lương khô nên võ khí nặng nề. Giọt mồ hôi ướt đầu manh áo chiến trời ơi máu quân thù hay máu của thân ta. Trời không thương còn nổi trận mưa sa, dòng lệ hận chan hòa tình đất nối. Trước mặt ta là Tràng Giang cản lối nẻo quay về có lối dời chân?
Phụng Hoàng:
Ngu Cơ ơi! Hãy mau cùng ta giục vó buông ... cương.
Tìm lối thoát thân giữa hồi nguy hiểm
Trên bước đường cùng nơi rừng sâu núi thẳm
Vượt suối băng ngàn để tìm lối đào dông
Thủy triều mênh mông con sông xanh nổi sóng ba đào
Bến nước Ô Giang đã ngăn đường cản lối
Nàng ơi! Trong lúc vận cùng ta có nỗi cuồng sinh.
Câu 5: Trời ơi! Nàng bỏ ta giữa bốn bề khói lửa, nhìn thấy ai chan hòa máu đỏ khiến cho ta chan chứa lệ anh... hùng. Ta có ngờ đâu trên nẻo cạn đường cùng. Người yêu mất cơ đồ cũng mất, ta còn mặt mũi nào nhìn non nước cỏ cây. Ôi, máu nhuộm hồng hoen ố mảnh xiêm y, Ta chua xót nghẹn ngào rơi nước mắt. Trong khi trước mặt ta là trùng dương bát ngát, bến Ô Giang đang cuộn sóng ba đào.
Câu 6: Ngu Cơ ơi! Hương hồn nàng có lẩn khuất đâu đây, hãy đưa ta thoát vòng tử lộ. Mưa nặng hạt dưới khung trời bão tố, chẳng biết giọt mưa sầu hay giọt lệ đẫm chinh y. Thôi Ngu Cơ ơi! Nàng hãy tạm nằm đây, thân ngà ngọc vùi sâu dưới ba tấc đất. Trên lưng tuấn mã ngậm ngùi ra nước mắt, ta ra đi trong tiếng gió mưa rừng. Trời ơi cả một thời oanh liệt đất Giang Đông, nay chỉ còn nhất nhơn nhất mã. Chí cả một đấng anh hùng đã tan tành theo bọt nước Ô Giang.
Ông tên thật là Huỳnh Trí Bá, sinh ngày 21 tháng 10 năm 1924 tại xã Đôn Châu, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh. Xuất thân trong gia đình vọng tộc, thân phụ là Hương cả[1], là con thứ sáu trong gia đình, ông còn có tên là Bảy Bá theo thông lệ người miền Nam.
Ông được mệnh danh là vua của các vị vua cải lương, "là người tạo danh cho các nghệ sĩ", bởi qua nhiều sáng tác của ông, nhiều nghệ sĩ khi thể hiện đã được cái ưa thích để đông đảo người xem chú ý hơn, ví dụ như: Mỹ Châu với bài "Hòn vọng phu", Út Trà Ôn với "Tình anh bán chiếu",... Bên cạnh đó, ông cũng sáng tác ra nhiều bài vọng cổ hài hước mà sau này được nhiều gương mặt nổi danh như nghệ sĩ Văn Hường, Hề Sa,...
Ông được Nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú năm 1988 và Nghệ sĩ Nhân dân năm 2012 để tôn vinh những đóng góp và thành tựu nghệ thuật của ông.
Hơn 50 năm sáng tác, ông đã để lại một kho tàng tác phẩm đồ sộ. Trên 50 vở cải lương đã được trình diễn trên các sân khấu đại ban và trên 2000 bản vọng cổ đã được các hãng đĩa, băng thu thanh và phát hành. Toàn bộ tác phẩm đều đã được đăng ký bản quyền[11]. Dưới đây chỉ là một số tác phẩm tiêu biểu: