TRỌNG THỦY
A LÝ PHƯỢNG TUYỀN
NGÂM THƠ
Thăm thẳm hoàng hôn tím một màu
Mỵ Châu nàng hỡi, biết tìm đâu?
Đường lông ngỗng trắng lần theo dấu
Ray rức hồn ta vạn nỗi sầu
VỌNG CỔ
1-Mỵ Châu ơi, ta thầm gọi tên ai mà dòng lệ ngập ngừng rơi trên lối về chốn cũ. Cát bụi mịt mù bay trong tiếng quân reo tở mở, ta biết tìm em ở tận phương nào… Hoàng hôn rơi một màu tím u sầu… Nhìn ba quân reo mừng chiến thắng, ta nghe hồn rạn vỡ một niềm đau (-) Mỵ Châu ơi, trong tình vợ chồng ta không tròn đạo phu thê, nhưng biết làm sao khi vương lịnh đã ban truyền. Ôi, nỗi hận lòng biết thuở nào nguôi, ta muốn thét gào lên cho vơi niềm đau xót.
2-Nàng ơi, vì tham vọng của vua cha nên tình ta phải chia lìa đôi ngả. Ta làm sao quên được hình bóng của người vợ thân yêu đã cùng ta sớt chia bao ấm lạnh vui buồn… “Tào khang chi thê bất khả hạ đường”… Ta giận cho mình quá yếu hèn nhu nhược, chỉ biết cúi đầu vâng lịnh của phụ vương (-) Để giờ đây đành rã cánh uyên ương, ta chiến thắng hay là tên chiến bại? Nhớ lời hẹn cùng ai ta lần theo đường lông ngỗng trắng, nắng đã tắt lâu rồi mà ta thẩn thờ đứng giữa hoàng hôn.
NÓI LỐI
Mỵ Châu ơi, ta nghe nỗi nghẹn ngào trong tấc dạ
Cách xa nàng tan nát cõi lòng ta
Ai bày ra chi một cuộc can qua
Để hai kẻ phải đôi đường, đôi ngã
VỌNG KIM LANG
Ơi, hỡi Mỵ Châu… Em ở nơi phương nào
Bao đắng cay nghẹn ngào làm tan nát lòng anh
Yên cương phút giây không rời
Anh tìm nàng khắp nơi rừng xanh
Lần dò theo đường, đường lông ngỗng trắng
Anh quyết đi tìm, dù muôn nẻo xuyên sơn
Vó câu rủi dung đêm ngày
Đâu quản gì nắng sương đầy vơi
Xin em thứ tha cho dùm
Một người chồng làm khổ đau đời em
Mỵ Châu, em ở nơi đâu?
Có hay anh đi tìm bóng em
Kìa, trùng dương rạt rào đâu đây
Xin vái van đất trời… chứng tri
VỌNG CỔ
5-Trời, Mỵ Châu! Mỵ Châu ơi, ta có ngờ đâu giây phút tương hội cùng nhau thì em đã hóa ra người thiên cổ. Giờ còn lại mình ta với bát ngát biển xanh muôn trùng sóng vỗ, hay bản nhạc sầu thương tiễn đưa em về thế giới muôn đời… Mỵ Châu ơi, thôi còn đâu ánh mắt, nụ cười… Nàng ơi, hãy tha thứ cho người chồng phản bội, đã đem gươm giáo sa trường thay tiếng nói của tình yêu (-) Ôi, trời sinh ra chi Trọng Thủy - Mỵ Châu, rồi gieo khổ lụy cho cuộc tình tan vỡ. Mỵ Châu ơi, “Nhất biệt khóc thành thiên cổ hận”, ta nhớ mãi bóng hình ai trọn kiếp chẳng phai mờ.
6-Trời ơi, ta muốn thét gào lên cho thấu chín tầng mây, cao xanh hỡi ông gây chi điều cay nghiệt. Ôi, tại sao ta không vùi thây nơi chiến trận, để không phải đau lòng khóc hận cảnh ly tan. Mỵ Châu ơi, với tình yêu của nàng, ta không tròn đạo nghĩa phu thê, với đất nước non sông, ta là hiện thân của một tên phản bội. Mỵ Châu ơi, ta không còn đáng sống trên cõi đời này nữa, xin hãy thứ tha cho một kẻ vong tình (-)
Mỵ Châu ơi, mình sẽ dìu nhau về thế giới bình yên, và vĩnh viễn không rời xa nửa bước.
Anh xin được chết theo nàng
Cho trọn đá vàng tình Trọng Thủy - Mỵ Châu.
(Được đăng trong tuyển tập Vọng cổ “Đồng Nai Ngày Mới” của A Lý Phượng Tuyền, do nhà xuất bản Đồng Nai ấn hành năm 1998)
A LÝ PHƯỢNG TUYỀN là bút danh của Soạn Giả Cổ Nhạc Thái Quốc Thế Nguyên. Sáng tác thơ, truyện ông dùng bút danh Dạ Ngân Châu và tên thật.
Ông sanh năm 1949 tại xã An Thuận, quận Thạnh Phú, Tỉnh Kiến Hòa (Bến Tre). Từ nhỏ, thân phụ ông đem gia đình lên định cư ở Thị Xã Mỹ Tho.
A Lý Phượng Tuyền là con trai Út (ông thứ 11 và còn thêm một người em gái) của Nhà Thơ Chánh Đạo Thái Vinh Tông và Bà Võ Thị Sáu. Ông là bào đệ của Nhà báo, văn thi sĩ Thái Quốc Mưu (Liêu Tiên Sinh) và, văn thi sĩ Kha Tiệm Ly (Thái Quốc Tế). Anh em ông đều thông thạo Hán-Việt. Trước năm 1975, ông phục vụ tại Tiểu khu Long Khánh, ngành Truyền Tin.
Tác phẩm đầu tay, bài thơ “Dặn Con Khi Thanh Bình” của ông được đăng trên tạp chí Nông Thôn Vùng Dậy”, của Tổng Bộ Xây Dựng Nông Thôn, Đuốc Từ Bi của Phật Giáo. Sau đó, thơ ông đuọc đăng trên nhiều Nhật Báo ở Sàigòn.
Vì chiến sự ngày càng khốc liệt, do bận quân ngũ, ông không thể tiếp tục sáng tác. Sau 30.4.1975, ông về sinh sống tại xã Bàu Hàm 1, xuyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai, trong cảnh khó nghèo. Mãi đến năm 1988 cuộc sống tạm ổn định, ông viết lại. Với chuyên đề Thơ Chua, Thơ Cay, Thơ Ngâm Dấm và Tiểu Phẩm. Đặc biệt là Cổ Nhạc.
Như chuyên đề đã định, văn thơ ông thường chống tiêu cực, châm chích tệ nạn xã hội và xây dựng đời sống,… đăng gần như thường kỳ trong mục Quán Cười Báo Lao Động Đồng Nai, báo Văn nghệ Thành phố HCM, báo Tuổi Trẻ Cười, tuyển tập Tuổi Hồng và các tập san như Thông Tin Đồng Nai, Văn nghệ Châu Đốc…v.v.
Về Cổ Nhạc ông đã có nhiều tác phẩm thành danh như: “Tâm Tình Cô Công Nhân”, “Hoa Cao Su” và vài mươi bài khác. Chặp cải lương “Ngọc Hoàng Nổi Giận” gây tiếng vang trong làng Cổ Nhạc. Hiện ông có trên 200 tác phẩm Cổ Nhạc. Soạn giả Viễn Châu từng ngậm ngùi nuối tiếc: “A Lý sinh chẳng phùng thời”.
Từ năm 1995 đến 2005, năm nào ông cũng đoạt 3, 4 giải thưởng sáng tác Cổ Nhạc, do các tỉnh, thành tổ chức. Trong đó có giải Huỳnh Văn Nghệ, 5 năm tổ chức một lần. Nhờ vậy, đời sống ông khấm khá hơn.
Soạn giả Cổ Nhạc A Lý Phượng Tuyền được các đài truyền hình Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai ghi hình tác giả và tác phẩm. Cá biệt, đài truyền hình Đồng Nai, chọn lọc và thực hiện VCD Tác Giả Tác Phẩm dành riêng ông.