ĐÒ CHIỀU TÔ CHÂU
Tân nhạc: Hoàng Hiệp
Vọng cổ: Trọng Nguyễn
NHẠC:
Nữ: Anh đến quê em đất biển Cà Mau
Có thấy xanh tươi đước rừng bát ngát
Dòng sông Tam Giang nắng trải đưa người.
Nam: Về thăm quê hương đất Mũi xa xôi
Trời xanh Năm Căn gió lộng bốn bề
Biển bao la sóng tung cánh chim hải âu.
VỌNG CỔ:
Câu 1:
Nữ: Anh ơi! Chỉ cách một con sông thôi mà núi Tô Châu phải nhờ con đò ngang đưa anh sang bến. Để thăm lại Hà Tiên khi chiều vương núi biếc, khói xám lan lan mờ nhạt nước Đông … Hồ.
Nam: Em ái ngại nhìn anh người khách lạ trên đò. Đôi mắt đó dường như em muốn hỏi:
Nữ: Anh ở nơi nào mà áo vướng bụi đường xa?
Nam: Anh mơ màng trong ý nghĩ thiết tha, Mũi Cà Mau là quê hương anh đó.
Nữ: Trên bầu trời mây lưu luyến trôi qua, khi đò cập bến buổi chia tay không từ giã …
LÝ CÁI MƠN:
Nam: Chiều dần buông, thời gian say đắm
Để ngắm Tô Châu, soi mình sắc hoa quỳnh hương
Biển lam xanh, rừng bát ngát, ngát xanh một màu.
Nữ: Chiều dần buông, nắng hồng lan nhanh
Bến Tô Châu, con đò ngang đưa anh về thăm lại Hà Tiên.
Câu 2:
Nam: Chim Bắt Cô cầm canh đưa câu hát, đưa nỗi bâng khuâng về trên bến đò chiều.
Nữ: Chiếc áo trận màu xanh quen thuộc, là những suy tư xuôi ngược trăm chiều. Dáng dấp của anh là bài ca đất Mũi, thương biết mấy ân tình - ơi mảnh đất cuối trời Nam.
Nam: Anh về Hà Tiên như đứa con xa về quê mẹ, nên mỗi con người, rừng núi đã thân quen. Minh Hải, Hà Tiên thắm tình nặng nghĩa, tuy cách mặt xa đường nhưng tình ý đã yêu …
NHẠC:
Nam: Anh đến quê em đất biển Cà Mau
Anh thấy bao la cánh đồng muối trắng
Miền quê hương em cá bạc tôm vàng.
Nữ: Miền quê hương anh đất cũng sinh sôi
Ở xa anh mong tới được quê mình
Gần thêm yêu dấu quê chúng ta Cà Mau.
VỌNG CỔ:
Câu 5:
Nam: Thư thả nghe em để anh ca trọn bài ca xứ sở mà nhớ Tam Giang, thương về Chợ Thủ. Vừa mới gặp nhau mà vội vã chia tay, anh về nơi núi rừng xứ bạn ôm nỗi suy tư trăn trở suốt đêm … dài.
Mỗi lần sang bến Tô Châu là lòng anh xao xuyến bồi hồi. Nhớ con đò xưa trên bến đợi, đưa người trai lên đường đi bảo vệ quê hương. Vì Hà Tiên anh sẵn sàng chiến đấu, chẳng ngại ngùng dù trăm trận hành quân.
Nữ: Giữ Tô Châu, giữ con đò trong anh đó, để bè bạn về thăm phố nhỏ cuối biên thùy. (-)
Câu 6:
Nam: Em ơi! Ngày mai này anh sẽ về lại Năm Căn, Gành Hào, Tam Giang, Chợ Thủ,Những thương cảng hiền hòa xứ biển Cà Mau. Để tìm lại dấu vết con đò xưa và nghe em hát.
NHẠC:
Nữ: Anh đến quê em đất biển Cà Mau
Có thấy xanh tươi đước rừng bát ngát.
Nam:Dòng sông Tam Giang nắng trải đưa người
Về thăm quê hương đất biển xa xôi.
Trời xanh Năm Căn gió lộng bốn bề
Biển bao la sóng tung cánh chim hải âu.
Về Vọng cổ:
Nam: Ôi đất biển phù sa trăm thương ngàn mến, một mảng phù sa cũng lấn biển thêm rừng.(-)
Em ơi! Về lại với Cà Mau, anh càng thấy biển trời thêm rộng lớn.
Ngồi trên thương cảng Gành Hào nhìn những con tàu lướt sóng, anh lại nhớ đò chiều trên bến Tô Châu./.
Nghệ sỹ, soạn giả Trọng Nguyễn tên thật là Nguyễn Phú Xuân, sinh năm 1938, tại xã Quách Phẩm, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, trong gia đình nông dân, yêu nước, yêu quý ca nhạc tài tử, cải lương. Trọng Nguyễn còn có các bút danh khác như: Dương Nghĩa Trần, Khắc Tâm, Bùi Công Sắc.[1]
Từ thuở còn đi học trường trung học Thái Văn Lung, Trọng Nguyễn đã được học nhạc với nhạc sỹ Trương Bỉnh Tòng và Hoàng Mãnh.
Năm 1954, khi mới vừa 16 tuổi Trọng Nguyễn đã thoát ly gia đình, đi theo cách mạng, được tổ chức phân công, lần lược qua các nhiệm vụ, như: tổ trưởng tổ giao liên, phân đoàn trưởng thanh niên lao động, tổ trưởng trong lực lượng vũ trang tỉnh Cà Mau.
Năm 1961, Trọng Nguyễn được về làm Bí thư Đoàn của Đoàn Văn Công tỉnh Cà Mau, cũng là thời gian thuận lợi nhất để Trọng Nguyễn phát triển tài năng nghệ thuật của mình. Năm 1972, Trọng Nguyễn được tín nhiệm làm Bí thư chi bộ, chính tri viên, Đoàn Văn Công Khu Tây Nam Bộ. Từ đó, Trọng Nguyễn lần lược giữ các nhiệm vụ như: Chủ tịch Hội VH, NT tỉnh Bạc Liêu, Ủy viên Ban Chấp Hành Hội Sân Khấu Việt Nam, Liên Chi Hội trưởng Chi Hội Sân Khấu Việt Nam, Đồng bằng sông Cửu Long.
Từ năm 2002, Trọng Nguyễn bắt đầu hưu trí.
Cuộc đời nghệ thuật của Trọng Nguyễn được bắt đầu từ sáng tác thơ, từ những năm 1950. Nhưng công chúng biết nhiều đến nghệ danh Trọng Nguyễn qua những bài ca Vọng cổ, kịch bản cải lương, và một số bản tân nhạc. Trong đó, có 19 kịch bản cải lương, hơn 200 bài ca Vọng cổ. Nổi bật có các tác phẩm như: Giọt Máu Oan Cừu, Bóng biển, Rừng Thần; Ơn Đảng, Bạc Liêu Ngày Ấy, Chợ Mới, Giọt Sữa Cuối Cùng.v.v. Hầu hết các tác phẩm của Trọng Nguyễn đều được xuất bản, phổ biến trên các phương tiện truyền thông.
Trọng Nguyễn xứng đáng được tôn vinh là một trong những cánh chim đầu đàn của tỉnh Bạc Liêu, trong hơn 40 năm qua, với những cống hiến to lớn cho sự nghiệp phát triển văn hóa nghệ thuật ca nhạc tài tử, cải lương tại địa phương, cũng như Miền Tây Nam Bộ. /.