CÁC LOẠI NHỊP CUẢ BẢN VỌNG CỔ
A - Đặc điểm và Quá trình phát triển
Bản Vọng Cổ, trước hết có tên là Dạ Cổ, do ông Cao Văn Lầu tục gọi là Sáu Lầu ở Bạc Liêu sáng chế hồi năm 1920 (sau 3 năm khi Cải Lương ra đời). Ông Sáu Lầu sanh năm 1890, ông chế bản Vọng Cổ khi Ông được 30 tuổi. Lúc ấy Ông cưới vợ được 10 năm, nhưng không có con. Cha mẹ buộc Ông phải cưới vợ khác để có con nối giòng. Ông buồn rầu không còn muốn làm gì nữa, ban ngày ra ngoài đồng, Ông nghiền ngẫm những lời vợ của Ông nói với Ông trước khi chia tay. Nhờ Ông biết đờn cổ nhạc nên trong tâm trạng người chồng đau khổ trước cảnh gia đình tan rã, Ông cảm hứng tạo ra bản nhạc 20 câu gọi là "Dạ Cổ Hoài Lang" (Đêm khuya nghe tiếng trống nhớ chồng) để kỷ niệm mối tâm tình của Vợ Ông đối với Ông (Khi Ông sáng tác bản Vọng Cổ rồi, ít lâu sau vợ của ông thụ thai và về sau có đến 6 người con). Về sau bản nhạc ấy đổi tên là "Vọng Cổ Hoài Lang” cho rộng thêm nghĩa (Trông mối tình xưa mà nhớ đến chồng).
* Những thời kỳ tăng nhịp của bản Vọng Cổ:
Bản Vọng Cổ nguyên thủy “Từ là từ phu tướng" ca giọng Bắc, nhịp đôi, và được thông dụng từ năm 1920 đến năm 1926. Kể từ năm 1927 về sau, bản Vọng Cổ biến chuyển không ngừng và mổi thời kỳ ước độ 8 hay 9 năm, tăng nhịp gấp đôi một lần. Sau đây đại khái là những thời kỳ tăng nhịp của Bản Vọng Cổ. Mổi thời kỳ tăng nhịp chia làm 2 đợt. Đợt đầu bài ca hơi ít chữ, qua đợt nhì bài ca nhiều chữ hơn song số nhịp vẫn giữ y nguyên.
- Thời kỳ 1 (1920-1926) nhịp Đôi nguyên thủy
- Thời kỳ 2 (1927-1935) tăng lên nhịp Tư
- Thời kỳ 3 (1936-1945) tăng lên nhịp Tám
- Thời kỳ 4 (1946-1954) tăng lên nhịp Mười Sáu
- Thời kỳ 5 (1955-1964) tăng lên nhịp Ba Mươi Hai
- Thời kỳ 6 (1965-…) tăng lên nhịp Sáu Mươi Bốn
* Những thể thức cấu tạo của Bản Vọng Cổ:
- Hồi năm 1920 khi bản Vọng Cổ của Ông Sáu Lầu ra đời với bản Đờn nguyên thủy “Hò, liu, xàng, xê, cống“. Dựa theo thể thức hạ giọng Bình Trắc ở chữ cuối cùng của mổi câu, các soạn giả Tuồng Cải Lương cấu tạo Bản Vọng Cổ ăn theo giọng Bình Trắc của chữ dứt câu đờn.
- Qua thời kỳ nhịp Tư và Tám, thể thức cấu tạo Bản Vọng Cổ cũng giữ nguyên căn, song chữ đặt thêm nhiều bằng hai và nhiều khi cho trôi vần.
- Đến thời kỳ nhịp 16, Nghệ sĩ Út Trà Ôn với bài "Tôn Tẩn Giả điên”, trong đó những điệu hò, điệu nói Thơ Vân Tiên được lồng vào trong câu Vọng Cổ, làm xáo trộn các thành phần của Bài Vọng Cổ đã đánh dấu một bước tiến, một kỷ nguyên mới cho bản Vọng Cổ. Nhờ cách trình bày độc đáo bài Vọng Cổ nầy mà nghệ sĩ Út Trà Ôn được biệt tặng danh hiệu "Đệ Nhứt Danh ca Miền Nam”.
- Qua thời kỳ nhịp 32, điệu Hò và nói Thơ cũng được xen vào câu Vọng Cổ.
- Qua đến năm 1964, một thay đổi quan trọng đã diễn ra trong việc cấu tạo Bản Vọng Cổ. Soạn giả Cổ Nhạc đã cho lồng vào câu Vọng Cổ những điệu Tân Nhạc như: Mưa Rừng, Trăng rụng Xuống cầu, Hòn Vọng Phu.v.v….
- Qua đền năm 1965, những bản Vọng Cổ mới gọi là "Tân cổ Giao Duyên" ra đời rất nhiều như: Ngày tạm biệt, Nhớ một chiều xuân, Mưa rừng ơi, Quán nữa khuya, Tình anh lính chiến, Chiều mưa biên giới, Lá thư miền Trung, Đò chiều v.v…
* Cách thức gieo vần trong bài Vọng Cổ:
- Lúc ban đầu câu ca còn ngắn nên soạn giả thường hạ vần ở chữ cuối cùng của mổi câu.
- Đến thời kỳ nhịp 32, 64, câu ca thêm nhiều chữ và dài quá, nếu hạ vần ở chữ cuối câu sẽ nghe hết hay, nên soạn giả gieo vần liên kết trong câu. Cũng vào thời kỳ nấy, bài ca soạn 6 câu thôi chứ không còn 20 câu như trước vì dài quá sẽ làm cho người nghe chán.
- Nói Lối giặm giữa 2 câu Vọng Cổ: khi một người ca dứt một câu Vọng Cổ, nhằm nhịp Song lang chót thì đờn nhồi 12 nhịp hoặc 8 nhịp. mới bắt qua câu kế. Trong khoảng đờn nhồi, vai tuồng không ca nữa. Để tránh cho khỏi nguội tuồng, soạn giả thường cho vai đối thoại. Nói Lối thêm một câu, gọi là "giặm" đặng trám vào khoảng trống, rồi người ca mới bắt đầu qua câu kế.
* Các phương pháp gối đầu bản Vọng Cổ:
Để giúp nghệ sĩ vô câu Vọng Cổ cho êm, các soạn giả thường áp dụng nhiếu phương pháp khác nhau để gối đầu bản Vọng Cổ.
- Dùng những bản Ngắn cổ điển như: Lý con Sáo, Sương chiều, Lưu thủy Hành vân….
- Dùng câu Lối văn xuôi (Kịch Sĩ phải biết nói Lối mở hơi "mùi" cho câu ca của mình có hứng thú rồi vô câu Vọng Cổ)
- Dùng câu Lối văn vần như: thượng lục hạ bát, song thất lục bát, thơ tứ tuyệt hoặc câu thơ Mới v.v… Ngoài ra soạn giả cũng có dùng lối "Văn vần tự do" để Nghệ sĩ gối đầu qua Vọng Cổ một cách khôi hài. Văn Vần Tự Do là lối văn tuy có vần song câu dài câu ngắn không đồng đều nhau.
- Dùng bản Tân Nhạc mới chế có đệm nhạc hay Ngâm Tao Đàn (soạn giả muốn đổi cách vô Vọng Cổ cho mới mẻ).
- Dùng bản Tân Nhạc có sẵn (phương pháp nầy dùng để soạn Bài Ca cho dĩa nhựa, chớ không thể dùng trong tuồng Cải Lương) như: Phiên gác đêm xuân, Đêm cuối cùng, Nhớ một chiếu xuân, Mấy dặm sơn khê, Ngày tạm biệt, nhiều khi soạn giả cho lồng vào những thành phần của các bản Tân Nhạc ấy.
B - Các Loại Nhịp và Bài Mẫu
1/ VỌNG CỔ NHỊP ĐÔI
Bản Vọng cổ nhịp đôi tức là bản Dạ cổ hoài lang nguyên thủy. Sáu câu đầu trong bản này như sau, vần gieo mỗi câu một lần (trong đó có câu vần lưng tức yên vận):
1. Từ là từ phu tướng,
2. Bảo kiếm sắc phán (phong) lên đàng.(phán: sai bảo; không phải là phong)
3. Vào ra luống trông tin chàng.
4. Năm canh mơ màng.
5. Em luống trông tin chàng,
6. Ôi gan vàng thêm (quặn) đau.(thêm:đã đau nhiều rồi; quặn: đau lần đầu. Có lẽ "thêm" phù hợp hơn)
Sáu câu này có sáu chữ dứt câu như sau:
1. .......... cống
2. .......... xang
3. .......... hò
4. .......... hò
5. .......... xề
6. .......... liu
Những chữ nhạc này được dùng trong tuồng "Tham phú phụ bần" như sau:
1. (Đào:) Vì đâu nên xui khiến (cống)
2. Cha nỡ rẽ thúy chia uyên (xang)
3. Làm cho đôi ta đeo phiền (hò)
4. Mang nặng lời nguyền (hò)
5. (Kép:) Đành cam đứt câu nghĩa tình (xề)
6. Trên Thiên Hoàng xin chứg minh (liu)
...
Tới hết 20 câu thì hết bản.
Theo tài liệu của tác giả Nhị Tấn thì lòng bản ( 20 câu , nhịp đôi, hơi Bắc Dựng ) bài Dạ Cổ Hoài Lang (tên gọi ban đầu là “Hoài Lang” của Cao Văn Lầu, tức Sáu Lầu) thế này:
1 - ( HÒ ) Là Xang Xê ( CỐNG )
2 - Líu ( CỔNG ) Líu Cổng Xê ( XANG )
3 - Hò ( XÊ ) Cống Xê Xang ( HÒ )
4 - Xang Xê ( - - ) Xang Hò ( - - )
5 - ( LIU ) Lỉu Liu Liu ( XỀ )
6 - Liu Xáng ( XÀNG ) Xề Liu Ú ( LIU )
7 - ( HÒ ) Là Xang Xê ( CỐNG )
8 - Xê Líu ( XƯ ) Cống Xê Xư ( XANG )
9 - Hò ( XÊ ) Líu Xê Xang ( XƯ )
10 - Xê Líu ( XƯ ) Cống Xê Xư ( XANG )
11 - Xư , Xang ( XƯ ) Cống Xê Xang ( HÒ )
12 - Xang Xê ( - - ) Xang Hò ( - - )
13 - Cống Xê ( XANG ) Tồn Xang Cống ( XÊ )
14 - Xê Líu ( XƯ ) Cống Xê Xư ( XANG)
15 - Tồn ( LIU ) Lỉu Liu Liu ( XÀNG )
16 - Liu Xáng ( XÀNG ) Xề Liu Ú ( LIU )
17 - Hò ( XƯ ) Cống Xê Xang ( HÒ )
18 - Xê Líu ( XƯ ) Cống Xê Xư ( XANG )
19 - Tồn ( LIU ) Lỉu Liu Liu ( XÀNG )
20 - Liu Xáng ( XÀNG ) Xề Liu Ú ( LIU )
2/ VỌNG CỔ NHỊP TƯ
Nhịp tư bắt đầu có từ năm 1927. Từ bản này, vọng cổ bước một bước thay đổi quan trọng: Chữ nhạc trong bài không theo hơi Bắc (tức Bắc chánh) nữa mà đổi sang hơi Bắc Oán. Dưới đây là sáu câu đầu bản "Khúc oan vô lượng" của soạn giả Huỳnh Thủ Trung tức Tư Chơi.
1. Đêm nào ngọn đèn khuya, mẹ đây chong trắng đĩa
2. Chàng ôi, nếu có gặp nhau họa chỉ trong giấc mộng huỳnh lương
3. Trời đất ôi! Vợ chồng tôi đang vui câu đầm ấm nơi cảnh gia đường
4. Vì ai gieo oan mà để cho thiếp phải cam dồn dập nơi khốn cảnh đoạn trường
5. Hơn bốn năm trường tựa nơi canh cửa thiếp trông chờ
6. Đã biết rằng tuyệt vô hy vọng mà lòng mong thiếp những hoài mong
...
Bài mẫu: Ngàn ngày ngàn đêm
Sáng tác lời : Huỳnh Khải
1. _____ Ngàn
Ngày ngàn đêm mẹ nhìn con lòng khắc khoải.
2. _____ dòng lệ đắng cay
Vẫn miên man chảy mãi không vơi.
3. _____ Hoa Xuân rộ nở nơi nơi
Sao đời con tơi bời trong bất hạnh
4. Nuối kiếp sống mong manh
Tựa đóa phù dung rả cánh bên thềm.
5. _____ Ngàn ngày ngàn đêm.
Thân thể con tôi chồng thêm nỗi héo tàn
6. Như cành khô trong nắng hạn
Ngại tiết thu về, sợ nạn gió đông lay
7. _____ Ngàn
Ngày ngàn đêm mẹ nhìn con thầm than thở
8. Ôi ! đâu bến đâu bờ
Bể khổ mênh mông bao giờ mới trả xong !
9. _____ Gối chiếc tàn đông
Lòng những mong giấc nồng đẹp mộng.
10. Ngờ đâu khi chợt tỉnh giấc nồng
Mới hay lão trúc đau lòng măng non
11. _____ Dù lợt sắc phai son
Miễn con sống trọn kiếp sống thừa.
12. Nhưng nửa đời dãi nắng dầm mưa
Biển Đông se cát vẫn chưa vui ý trời.
13. _____ Ngàn
Ngày ngàn đêm mẹ nhìn con thầm ao ước.
14. Có phương dược nhiệm mầu
Giải đi độc chất đã gieo sầu gia can
15. _____ Cứu đời con khỏi gian nan
Hiệp cùng chúng bạn hân hoan đến trường
16. Thường tình, mẹ dốc hết lòng thương
Dù đao kiếm trăm đường mẹ chẳng nao ==
17. _____ Lòng mẹ những ước ao
Vươn vai Phù Đổng mai sau con nên người.
18. Dâng đời con tạo nụ cười.
Hết rồi vận bỉ tiếng cười rộn thêm
19. _____ Ngàn ngày ngàn đêm
Dõi bước cha ông dựng thêm những công trình.
20. Đồng quê thành phố đẹp xinh
Qua cảnh khổ thắm tình quê hương.
3/ VỌNG CỔ NHỊP TÁM
Bản nhịp tám, từ năm 1936, bắt đầu ngân nga hơn bản nhịp tư. Người góp công làm bản nhịp tám được công chúng ưa chuộng phải kể đến nghệ sĩ Lưu Hoài Nghĩa tức Năm Nghĩa. Nhiều bản tuồng nhịp tám tới nay vẫn còn nổi tiếng, như bản "Tô Ánh Nguyệt" của soạn giả Trần Hữu Trang:
1. Sau khi tôi có chết đi rồi, xin Cậu chứng kiến cho tấc lòng tôi mà tỏ hết khúc nói cho ai kia được rõ nỗi khổ tâm của tôi trước giờ tôi nhắm mắt
2. Dưới nấm mộ xanh, thân người mạng bạc, ngàn muôn năm linh hồn tôi họa chăng được tiêu tan khối hận chốn tuyền đài
3. Mười tám năm dư lắm lúc tôi muốn vạch mặt phơi gan mà than thở với đất trời
4. Nhưng mà mối hận tình nó nấu nung trong tim phổi, nghĩ bao nhiêu tội lỗi, gặp mặt ai tôi nói chẳng nên lời
5. Ngày hôm nay, tôi sắp lìa xa bao nhiêu kẻ thân yêu quý mến mà từ giã cõi đời
6. Cậu ôi, tôi nhờ cậu nói lại với má thằng Tâm rằng tôi mong giũ sạch nợ trần ai đặng thoát ra khỏi vòng tình thiên hận hải, vậy tôi xin có một đôi lời nhắn nhủ cùng với ai.
Bài mẫu:
Vì Tiền Lỗi Đạo (Tác gài: Lời cổ)
Tình Cao Thượng (Sáng tác: Lời cổ; Minh Lời sưu tầm)
Tâm Tư (Tác giả: Hải Đăng)
Vì tiền lỗi đạo
4/ VỌNG CỔ NHỊP 16
Tới bản mười sáu, từ năm 1946, mỗi câu bắt đầu dài, như sáu câu sau đây trong "Tôn Tẫn giả điên", nổi tiếng với giọng ca Út Trà Ôn:
1. Úy trời đất ôi! Nỗi đoạn trường, cũng vì tôi đây quá tin thằng Bàn Quyên là bạn thiết cho nên ngày hôm nay thân của tôi phải ra nông nỗi
2. Còn như công cuộc ngày hôm nay đây, bởi tôi không cẩn thận cho nên bạn tôi nó mới đành nhẫn tâm chặt lấy một bàn chơn tôi
3. Khi tôi còn ở trên non thì tôi quyết ẩn thân tu tâm dưỡng tánh, luyện thuốc trường sanh mong thành chánh quả đặng có tọa hưởng Bồ Đoàn
4. Nào hay đâu thằng Bàn Quyên nó lên năn nỉ ỷ ôi, lời ngon tiếng ngọt, nó nói rằng chúa của nó là một đấng minh quân chơn mạng. Bởi vậy cho nên nó bảo tôi một một, hai hai cũng phải xuống mà đầu hàng.
5. Cho nên khi ấy tôi mới hạ san, thì thầy của tôi có cho tôi một bức cẩm nang lại dặn tôi rằng: Hễ khi nào lâm nạn thì dở ra xem rồi liêu> chước biến quyền
6. Vậy thì tôi đây vọng nguyện với Tôn sư, khai thơ cứu mạng. Ủa sao tôi chẳng thấy điều chi lạ, chỉ thấy trong thơ có một chữ "Cuồng". Ờ, ờ, phải rồi, đây thầy tôi bảo tôi giả điên đặng có thoát thân.
Thời kỳ vọng cổ nhịp mười sáu cũng là lúc câu vọng cổ có trộn vô những câu nói thơ (tức ngâm thơ, theo điệu Tao Đàn hoặc Vân Tiên) và những câu hò. Đây là sáng kiến của nghệ sĩ Út Trà Ôn ảnh hưởng cho tới nay. Trong bản "Tôn Tẫn giả điên", Út Trà Ôn nói thơ trong câu 11-12 và hò trong câu 13 như sau:
11. Bây giờ buồn quá, để nói thơ cho bà con cô bác nghe chơi: Buồn cười vua Trụ đa đoan, mê nàng Đắc Kỷ rồi giết oan hết cả trào. Nói qua tới lớp vua U mà yêu ấp ả má đào
12. Ẵm ôm nàng Bao Tỉ giặc vào cũng không hay. Còn vua Kiết có tánh rồi hay say, nghe lời của Muội Hỷ mà lại giết ngay tôi Long Phùng.
13. Hò hơ... chết tôi, tôi chịu xin đừng bận bịu bớ điệu chung tình. Hò hơ... con nhạn bay cao rồi khó bắn, hò hơ... con cá ở ao quỳnh cũng khó câu...
Từ khi có bản vọng cổ mười sáu nhịp, câu nhạc đã bắt đầu đa dạng phong phú.
Bài Mẫu: Tôn Tẫn giả điên
1. Úy trời đất ôi! Nỗi đoạn trường, cũng vì tôi đây quá tin thằng Bàn Quyên nó là bạn thiết cho nên ngày hôm nay thân của tôi _ phải ra nông nỗi (cống)
(+) (+) (+) (+) (+) (+) (+) (+)
2. Còn như công cuộc ngày hôm nay đây, bởi tôi không cẩn thận cho nên bạn tôi nó mới đành nhẫn tâmchặt lấy một bàn chơn tôi (xang)
(+) (+) (+) (+) (+) (+)
3.Khi tôi còn ở trên non thì tôi quyết ẩn thân tu tâm dưỡng tánh, luyện thuốc trường sanh mong thành chánh quả đặng có _ tọa hưởng Bồ Đoàn (hò)
(+) (+) (+) (+) (+)
4. Nào hay đâu thằng Bàn Quyên nó lên năn nỉ ỷ ôi, lời ngon tiếng ngọt, nó nói rằng chúa của nó là một đấng minh quân. Bởi vậy cho nên _ nó bảo tôi một một, hai hai cũng phải _ xuống mà đầu hàng. (hò)
(+) (+) (+) (+) (+) (+) (+) (+)
5. Cho nên khi ấy tôi mới hạ san, thì thầy của tôi có cho tôi một bức cẩm nang lại dặn tôi rằng: Hễ khi nào lâm nạn thì giở ra xem rồi liêu chước biến quyền (xề)
(+) (+) (+) (+)
6. Vậy thì tôi đây vọng nguyện với Tôn sư _ khai thơ cứu mạng. Ủa sao tôi chẳng thấy điều chi lạ, chỉ thấy trong thơ có một chữ "Cuồng". Ờ, ờ, phải rồi, đây thầy tôi bảo tôi giả điên _ đặng có thoát thân (liu).
5/ VỌNG CỔ 32 NHỊP
Bản vọng cổ 32 nhịp, từ năm 1955, là bản vọng cổ được coi là tiêu chuẩn hiện nay, mặc dù cũng đã xuất hiện bản 64 nhịp và 128 nhịp.
Từ bản 32 nhịp, mỗi câu bắt đầu có vần gieo ngay trong câu, vì 32 nhịp là một quãng quá xa để chỉ có một vần. Câu dưới đây trong bản "Nắng chiều quê ngoại" của soạn giả Viễn Châu là một thí dụ:
1. Mấy nếp nhà tranh ẩn mình sau hàng tre rủ bóng đang vươn lên ngọn khói lam chiều. Cảnh hoàng hôn sao nhuộm vẻ tiêu điều. Khóm lau thưa xào xạc trên lối đường mòn vẳng lặng cô liêu; nhà Ngoại tôi khuất sau mấy lũy dừa xanh soi bóng dịu hiền, bên cạnh mái đình làng đìu hiu cỏ phủ.
Bản vọng cổ 32 nhịp đầy đủ có 6 câu. Tức là ngắn hơn các bản nhịp tám thường có 20 câu. Tuy nhiên, ngay cả 6 câu cũng có khi không sử dụng hết. Bản vọng cổ khi ghi ra giấy, do đó, thường có đánh số câu để người nghệ sĩ biết bản nhạc sử dụng câu nào. Hai câu 1 và 4 thường chỉ có 16 nhịp cuối câu.
Khi bản vọng cổ đã tới 32 nhịp, nhiều soạn giả chêm vô những câu nói giặm. Để nghệ sĩ vô ca vọng cổ cho êm, soạn giả cũng thường gối đầu bằng một khúc nói lối văn xuôi, những câu nói lối văn vần (lục bát, song thất lục bát, tứ tuyệt, hoặc cả thơ mới), hoặc một bản ngắn cổ điển như Lưu thủy, Hành vân, Sương chiều, hoặc tiêu biểu là Lý con sáo.
Trở lại vọng cổ, có nguồn gốc từ bài ''Dạ cổ hoài lang của cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu ra đời tại Bạc Liêu năm 1919. Sau đó được nhiều tác giả - nhạc sĩ phát triển nhịp thức, tức nới rộng lòng bản lòng câu và tăng tiết tấu. Từ 20 câu nhịp đôi, đến nhịp tư, nhịp tám, nhịp 16 và đến nay là nhịp 32 gọi là vọng cổ nhịp 32. Tức là sự phát triển của bài (bản) vọng cổ được lấy số nhịp trong mỗi câu làm tín hiệu để gọi tên thể loại. Nói khác đi, số nhịp tức trống canh của mỗi câu là tên gọi của thể loại vọng cổ. Nhịp đôi tức là vọng cổ mỗi câu gồm hai nhịp, nhịp tư mỗi câu có bốn nhịp, nhịp tám mỗi câu tám nhịp, nhịp 16 mỗi câu 16 nhịp và nhịp 32 mỗi câu 32 nhịp. Nhưng cần nói thêm, mỗi lần bài (bấn) vọng cổ phát triển thêm một bước nhịp thức là số nhịp trước nó được nhân đôi như từ nhịp tư nhân đôi thành nhịp tám và nhịp tám nhân đôi thành 16, rồi 16 nhân đôi thành 32. Riêng nhịp 32 thì được tính theo hệ thống nhịp thức đủ, tức là mỗi câu vọng cổ đủ có năm khuôn, mỗi khuôn có bốn nhịp (4 x 5 = 20 nhịp) theo lời ca, còn ba khuôn - 12 nhịp là lái đòn không có lời ca, như vậy kể cả lái đòn và lòng câu lời ca có tất cả là 32 nhịp.
Bài (bản) vọng cổ nhịp 32 có hai khả năng sử dụng : một là bài ca lẻ (sử dụng độc lập), hai là kết hợp sử dụng được thiết kế trong các kịch bản cải lương và rất được phổ biến trong cải trong từ những nam thập niên 50 đến nay. Hơn nửa thế kỷ, bản vọng cổ đã ngự trị trong dòng âm nhạc cải lương như một giai điệu chủ lực không thể thiếu được. Có thể nói, vọng cổ 32 hiện nay là ''hoàng đế' của cải lương và là người Việt Nam từ Nam chí Bắc ai cũng biết nó và thậm chí rất nhiều người biết ca vọng cổ.
Cấu Trúc Bản Vọng Cổ Nhịp 32 :
Câu 1 : ...Nhịp 16 Hò
20 Hò , 24 Cống , 28 Xang , 32 Cống
Câu 2 : 4 Xề , 8 Xang , 12 Xang , 16 Hò
20 Hò , 24 Cống , 28 Xang , 32 Xang
Câu 3 : 4 Xề , 8 Xang , 12 Xang , 16 Cống
20 Xang , 24 Cống , 28 Xang , 32 Hò
Câu 4 : 4 Hò , 8 Xề , 12 Xề , 16 Cống
20 Xang , 24 Cống , 28 Xang , 32 Hò
Câu 5 : 4 Xề , 8 Hò , 12 Hò , 16 Hò
20 Hò , 24 Cống , 28 Xang , 32 Xề
Câu 6 : 4 Xề , 8 Cống , 12 Xang , 16 Cống
20 Xang , 24 Xề , 28 Xề , 32 Liu
Câu 7 : 4 Xề , 8 Hò , 12 Hò , 16 Hò
20 Hò , 24 Cống , 28 Xang , 32 Cống
Câu 8 : 4 Xề , 8 Xang , 12 Xang , 16 Xề
20 Xề , 24 Cống , 28 Xang , 32 Xang
Câu 9 : 4 Xề , 8 Xang , 12 Xang , 16 Cống
20 Xang , 24 Cống , 28 Xang , 32 Xư
Câu 10 trùng câu 8
Câu 11 trùng câu 3
Câu 12 trùng câu 4
Câu 13 trùng câu 7 nhưng nhịp 32 Xê
Câu 14 trùng câu 8
Câu 15 trùng câu 3
Câu 16 trùng câu 6 nhưng nhịp 4 Hò
Câu 17 : 4 Hò , 8 Xang , 12 Xang , 16 Cống
20 Xang , 24 Cống , 28 Xang , 32 Hò
Câu 18 trùng câu 8
Câu 19 trùng câu 3
Câu 20 trùng câu 16
(Trích trong Bộ Bài Bản Sân Khấu Cải Lương do nhạc sĩ Nhị Tấn sưu tầm & biên soạn)
Nguồn: Tổng hợp từ cailuongvietnam.com; conhacvietnam.com; wikipedia