HOA SỨ
Soạn giả Trọng nguyễn
LỐI
Bên mộ chị chưa trồng hoa sứ
Sao gió đi về lại ngát hương
Đã nghe nước chảy về miền nhớ
Róc rách đôi bờ ngỡ Suối Lương
LƯU THỦY HÀNH VÂN
Biên biếc xanh
Màu của núi non
Vùng đất thiêng Ba Hòn
Nhớ thương chị Sứ
hi sinh tuổi vừa đôi mươi
Hòn Đất ghi bao chiến công rạng ngời
VỌNG CỔ
1. Chị Sứ ơi! Chị là màu xanh muôn đời của núi. Mãi mãi là hương của hoa, là bài ca hành khúc làm bạt vía quân thù.
Chiều bâng khuâng, chiều bàng bạc sương mù. Chiến khu xưa giờ đây yên ắng quá, bài ca anh hùng em hát giữa ngàn xanh. Hương sứ bay dìu dịu trong lành, chị bát ngát giữa ngàn hoa của đất. Ơi! Ba Hòn còn mang nặng nhớ thương, chiều bâng khuâng, chiều lắng sâu qua miền nhớ.
2. nhớ sáng chị gọn gàng, nhanh nhạy, gom lá rừng đốt lửa để báo tin. Giặc tràn lên đồng đội gày lưới lửa, đạn bay ra từ ngực núi anh hùng. Hòn Đất thề chiến đấu đến kỳ cùng. Ôi! Lời thề đã khắc vào vách đá, cho ngàn đời đất mãi được bình yên.
Chị ngã xuống giữa những ngày đánh Mỹ, khi mái tóc thề vừa phủ đầy vai. Ơi! Hoa Sứ đã trở thành tên của chị, cho bốn mùa hoa nở ngạt ngào hương.
LỐI
Cuộc chiến đã lùi xa
Mà bài ca còn vọng vang trong núi
Gió đến muộn nỉ non bên dòng suối
Chiều bâng khuâng thương quá giấc mơ xưa.
VỌNG CỔ
5. Hình bóng của chị vẫn còn đây bên Suối Lương buổi trưa hè ngồi gội tóc. Lòng mơ về Núi Cấm nghe suối Thủy Tiên róc rách gọi tên… mình.
Hai quê hương như bóng như hình. Chị nghe đau khi giặc Vây đồi Tức Dụp, bên ấy anh em mình – đồng đội có sao không?
Anh chị ơi! Lấy máu mình cứu nguy đồi Tức Dụp, nguyện giữ Ba Hòn bằng lồng ngực trái tim tôi. Nếu mai đây không kịp về quê mẹ, nhớ đón tôi mùa hao sứ gọi hương về.
6. Ơi! Mênh mông – chiều mênh mông quá, lá nghiêng vai tiễn giọt nắng lúc hoàng hôn. Thời gian trôi lặng lẽ giữa Ba Hòn, mà ngày tháng cứ dồn thêm nỗi nhớ.
Chiến khu xưa giờ đây yên ắng quá, bài ca anh hùng em hát giữa ngàn xanh, hương sứ bay dìu dịu trong lành, chị bát ngát giữa ngàn hoa của đất. Kiên Giang ơi, chiều nay em đang khóc, niềm tiếc thương len trong hạnh phúc ngọt ngào.
Bên mộ chị chưa trồng hoa sứ
Sao gió đi về lại ngát hương
Đã nghe nước chảy về miền nhớ
Róc rách đôi bờ ngỡ Suối Lương.
Nghệ sỹ, soạn giả Trọng Nguyễn tên thật là Nguyễn Phú Xuân, sinh năm 1938, tại xã Quách Phẩm, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, trong gia đình nông dân, yêu nước, yêu quý ca nhạc tài tử, cải lương. Trọng Nguyễn còn có các bút danh khác như: Dương Nghĩa Trần, Khắc Tâm, Bùi Công Sắc.[1]
Từ thuở còn đi học trường trung học Thái Văn Lung, Trọng Nguyễn đã được học nhạc với nhạc sỹ Trương Bỉnh Tòng và Hoàng Mãnh.
Năm 1954, khi mới vừa 16 tuổi Trọng Nguyễn đã thoát ly gia đình, đi theo cách mạng, được tổ chức phân công, lần lược qua các nhiệm vụ, như: tổ trưởng tổ giao liên, phân đoàn trưởng thanh niên lao động, tổ trưởng trong lực lượng vũ trang tỉnh Cà Mau.
Năm 1961, Trọng Nguyễn được về làm Bí thư Đoàn của Đoàn Văn Công tỉnh Cà Mau, cũng là thời gian thuận lợi nhất để Trọng Nguyễn phát triển tài năng nghệ thuật của mình. Năm 1972, Trọng Nguyễn được tín nhiệm làm Bí thư chi bộ, chính tri viên, Đoàn Văn Công Khu Tây Nam Bộ. Từ đó, Trọng Nguyễn lần lược giữ các nhiệm vụ như: Chủ tịch Hội VH, NT tỉnh Bạc Liêu, Ủy viên Ban Chấp Hành Hội Sân Khấu Việt Nam, Liên Chi Hội trưởng Chi Hội Sân Khấu Việt Nam, Đồng bằng sông Cửu Long.
Từ năm 2002, Trọng Nguyễn bắt đầu hưu trí.
Cuộc đời nghệ thuật của Trọng Nguyễn được bắt đầu từ sáng tác thơ, từ những năm 1950. Nhưng công chúng biết nhiều đến nghệ danh Trọng Nguyễn qua những bài ca Vọng cổ, kịch bản cải lương, và một số bản tân nhạc. Trong đó, có 19 kịch bản cải lương, hơn 200 bài ca Vọng cổ. Nổi bật có các tác phẩm như: Giọt Máu Oan Cừu, Bóng biển, Rừng Thần; Ơn Đảng, Bạc Liêu Ngày Ấy, Chợ Mới, Giọt Sữa Cuối Cùng.v.v. Hầu hết các tác phẩm của Trọng Nguyễn đều được xuất bản, phổ biến trên các phương tiện truyền thông.
Trọng Nguyễn xứng đáng được tôn vinh là một trong những cánh chim đầu đàn của tỉnh Bạc Liêu, trong hơn 40 năm qua, với những cống hiến to lớn cho sự nghiệp phát triển văn hóa nghệ thuật ca nhạc tài tử, cải lương tại địa phương, cũng như Miền Tây Nam Bộ. /.