GIÁP LỜI
Hà Nam Quang
Lối
Nam : Anh bên Vàm Cỏ Đông, em ở sông Rạch Cát
Nước hai dòng khỏa mát xã cù lao.
Khóc Hoàng Thiên
Nữ : Lúc mới quen nhau –
Em có lời giao ước
Khi nào anh chưa hiểu hết
Đất nước, con người nơi cắt rún chôn nhau
Thì đừng mơ đến chuyện cau trầu
Người yêu của em nếu không biết chuyện quê mình
Coi chừng lối xóm cười chê
Nam : Chúng ta lớn lên trên quê hương Long Hựu
Đã quen từng mảnh đất, dòng sông
Nhớ lời ước giao anh tìm hiểu kỹ càng
Tên đất tên làng từ thuở khai hoang
Nữ : Vậy anh nói đi tên xã quê mình
Long Hựu có nghĩa là sao ?
Vọng Cổ
Nam : Muốn biết Long Hựu có nghĩa làm sao, anh phải tìm hiểu chuyện khởi đầu gần ba trăm năm trước, khi họ Huỳnh cùng vài chục lưu dân dừng thuyền, chọn bến khai mở rừng hoang đặt tên đất Long ....Đàm .
1/ Vì địa thế nơi đây có dáng giống hàm rồng .
Nhưng gặp lúc mưa không hòa, gió không thuận, nên vụ mùa luôn thất bát trắng tay.
Rồi mọi người nản chí bỏ ra đi khi thấy đất đai nhiễm phèn, ngập mặn.
Mười bảy năm sau ông Nguyễn Tấn Minh quyết chí gọi dân cùng về lập ấp.
Nữ : (dặm) Chuyện đó em biết rồi !
Nam : Ủa ! biết, sao còn hỏi ?
2/ Nữ : Hỏi để hiểu thêm cội nguồn xứ sở, hỏi để nhớ công lao khổ nhọc nhằn.
Dân gian từ lâu luôn thờ một chữ thần.
Thần trong lòng dân là người có thật, người đi trước mở đường, dựng nền móng cho cháu con.
Nam : (ca tiếp) Long Hựu có nghĩa là trở lại với nhau khai phá rừng sâu, đào kinh rửa mặn.
Nữ : Từ lúc xã cù lao có tên Long Hựu, ai đi đâu rồi cũng trở lại tìm nhau.
Ngâm thơ
Nam : Thuyền lá trôi vòng quanh nhánh sông
Thuyền tình tôi vẫn lén ngó mong
Đã giáp từ lâu hai dòng nước
Biết đến chừng nào giáp nhớ thương ?
Vọng cổ
5./ Nữ : Nuớc ở Vàm Cỏ Đông đã giáp sông Rạch Cát, khi con kinh nước mặn thông sang mở ngõ tắt đi về .
Anh kể em nghe nhiều chuyện của quê nhà.
Đồn Rạch Cát giặc xây trăm năm trước, kiên cố thành hào, nhưng lại thiếu lòng dân.
Nữ: Nhà trăm cột, dựng trăm cây gỗ quý trăm năm thăng trầm càng đẹp dáng đồng đen.
Một xã cù lao có hai di tích, Long Hựu vẫn luôn mời khác quay về.
Phi Vân Điệp khúc
Nam : Thoảng nghe gió từ ngoài sông
Thổi qua cánh đồng cù lao
Hỡi ai có lời ước giao
Để anh cau trầu
Sang nhà em giáp lời cưới xinh
Hai dòng sông chung đường đón dâu.
Nữ : (ca tiếp câu 6) Anh ở Vàm cỏ Đông, em bên sông Rạch Cát, đường đón dâu có ngõ tắt cũng gần.
Nam : Sau nầy có ai hỏi chuyện xã cù lao, anh sẽ kể thêm chuyện cô dâu giao ước.
Nữ Chuyện của quê hương nếu anh không biết, thì chuyện giáp lời đừng tính mắc công.